2月11日 建国記念の日
建国記念の日には、「建国をしのび、国を愛する心を養う」つまり「日本ができたことを祝い、大切に思う気持ちを育む」という意味があります。 神武天皇が即位した日にちなんで定められた紀元節を由来として、1966年に日本の祝日に制定されました。
建国記念の日を制定するにあたり、「神武天皇が実在するかも定かではなく、日本という国の正確な起源がわからないのに、記念日をつくるのはどうか」という意見が専門家からあがったようです。
そこで、「日本が建国されたことを祝う日」として建国記念の日という名前が付けられたと言われています。
日本の呼称は古くから数多くあり、大和政権による統一以来「やまと」「おおやまと」と称していた。 「日本」が国号として定められた時期は明かではなく、大化から大宝までのある時期だと考えられる。 近代の正式な国号は、明治憲法では「大日本帝国」、現行憲法では「日本国」である。
実際には、ヤマトの側が倭から日本への国号変更を申し出て、それを則天武后が承認した、ということなのでしょう。 そういったわけで、おおむね700年前後に「倭」が「日本」となったと考えられます。 そうすると、712年にできた『古事記』があえて「日本」という呼称を用いなかったのには、なんらかの事情があったと考えられます。
2月11日:建国記念の日
Ngày Quốc Khánh Nhật Bản 11 tháng 2
Ngày Quốc khánh mang ý nghĩa [tưởng nhớ ngày lập quốc , nuôi dưỡng trái tim yêu nước] nghĩa là [ Kỉ niệm ngày thành lập nước Nhật Bản, ấp ủ những cảm xúc đặc biệt]. Ngày Quốc Khánh này được ban hành vào ngày lễ của Nhật Bản năm 1966 với sự kiện bắt nguồn từ ngày lên ngôi của Hoàng đế Jinmu .
Nhân dịp Ngày Quốc Khánh này thì có rất nhiều ý kiến từ những chuyên gia cho rằng [Thiên hoàng Jimmu có thực sự tồn tại hay không và không biết rõ nguồn gốc chính xác của đất nước Vậy thì tại sao không lấy nó làm một ngày Kỉ niệm ? ].
Do đó, Người ta nói rằng [Ngày Quốc khánh Nhật Bản ] là ngày kỷ niệm thành lập nước Nhật.
Có rất nhiều tên ở Nhật Bản từ thời cổ đại, và kể từ khi được thống nhất bởi chính quyền Yamato, nơi này được gọi là "Yamato" và "Oyamato". Không rõ "Nhật Bản" được chỉ định làm quốc hiệu khi nào, nhưng người ta nghĩ rằng là từ thời Taika đến thời đại Taihou. Quốc hiệu thời hiện đại chính thức là “Đế quốc Nhật Bản” trong Hiến pháp Minh Trị và “Nhật Bản” trong Hiến pháp hiện hành.
Cái tên Nhật Bản có từ bao giờ?
Yamato → Nhật Bản
Trên thực tế, có vẻ như chính quyền Yamato đã đề nghị đổi tên đất nước từ Yamato thành Nhật Bản, và Hoàng hậu Wu Zetian đã chấp thuận. Vì lý do đó, người ta cho rằng "Yamato" đã đổi thành "Nhật Bản" vào khoảng 700 năm trước. Nếu nói như vậy, có thể có một số lý do tại sao "Kojiki", được thành lập vào năm 712, không sử dụng tên "Nhật Bản".