カレー(カレーライス)は日本人がもっとも愛する料理の一つです。レストランや学校給食、家庭料理として幅広く普及しており、「国民食」として認知されています。
Cà ri (cơm cà ri) là một trong những món ăn được người Nhật yêu thích nhất. Nó được sử dụng rộng rãi trong các nhà hàng, bữa ăn trưa ở trường học và tại các gia đình, và được coi là một “món ăn quốc dân”.
しかし、日本でカレーが食べ始められたのは近代で、その歴史は長くありません。今回はカレーが日本の国民食になるまでの歴史と変遷をご紹介します。
Tuy nhiên, cà ri bắt đầu được ăn ở Nhật Bản vào thời kỳ cận đại, và lịch sử của nó thì không quá dài. Lần này, tôi xin phép giới thiệu về lịch sử và những thay đổi cho đến khi cà ri trở thành món ăn quốc dân của Nhật Bản.
日本人が愛する「カレー」とは
MÓN CÀ RI MÀ NGƯỜI NHẬT YÊU THÍCH
カレーは、数種類のスパイスを用いて味付けするインド発祥の料理(調理方法)の総称です。人類の交易の発展とともに世界中に伝来し、各国でその国独自のアレンジを加えた様々な料理が生み出されています。
Cà ri là một thuật ngữ chung cho các món ăn Ấn Độ (phương pháp nấu ăn) được nêm nếm với nhiều loại gia vị.Với sự phát triển của thương mại con người đã du nhập khắp nơi trên thế giới, và mỗi quốc gia lại sáng tạo ra những món ăn đa dạng với những nét độc đáo riêng.
日本では、スパイスに小麦粉を混ぜてとろみをつけたソースを米飯にかける「カレーライス」という料理に発展しました。日本のカレーライスは、諸国のカレーと比べて、辛味が少なく甘みが強い日本人好みの味付けになっています。
Ở Nhật Bản, nó được phát triển thành một món ăn được gọi là “cơm cà ri”, được làm bằng cách trộn gia vị với bột và thêm nước sốt đặc vào cơm.So với cà ri của các nước khác, cơm cà ri của Nhật Bản ít cay hơn và ngọt hơn, được nêm nếm phù hợp với khẩu vị của người Nhật.
カレーが日本の国民食になるまでの歩み
Làm thế nào mà món cà ri lại trở thành một món ăn quốc dân của Nhật Bản
日本でカレーが食べ始められたのは、1870年代です。1871年、明治維新によりそれまで禁止されていた「牛肉」が解禁されました。そこで好まれた料理が、イギリスとの交易で持ち込まれた「カレー粉」で牛肉を煮込み、ご飯にかけて食べるスタイルの「カレーライス」です。当時はレストランでのみ食べられる高級料理でした。
Cà ri lần đầu tiên được ăn ở Nhật Bản vào những năm 1870. Năm 1871, Minh Trị Duy tân dỡ bỏ lệnh cấm thịt bò. Món ăn yêu thích đó chính là: “cơm cà ri”, là một dạng cơm mà trong đó, thịt bò được hầm với bột cà ri, đây làm món được du nhập trong quá trình giao thương với nước Anh.Vào thời điểm đó, nó là một món ăn cao cấp, chỉ có thể ăn trong các nhà hàng.
1900年代になると、一般家庭向けに国産のカレー粉が開発されます。これにより大衆料理化が一気に進みます。さらに、栄養価を高めるために「じゃがいも、玉ねぎ、人参」などの野菜を一緒に煮込むスタイルが普及しました。
Vào những năm 1900, bột cà ri được sản xuất trong nước được phát triển trong các hộ gia đình bình dân. Kết quả là, loại thực phẩm này được phổ biến, lan rộng một cách nhanh chóng.Hơn nữa, để tăng giá trị dinh dưỡng, việc nấu nhừ các loại rau củ như “khoai tây, hành tây, cà rốt” cũng trở nên phổ biến.
しかし、1941年に太平洋戦争が始まると、食料統制のためカレーの製造・販売が禁止されます。一節には敵国であるイギリスから持ち込まれた文化を規制する目的があったとされています。Tuy nhiên, khi Chiến tranh Thái Bình Dương bắt đầu vào năm 1941, việc sản xuất và bán cà ri bị cấm do sự kiểm soát về thực phẩm. Trong một đoạn văn thì người ta cho rằng đó là mục đích mà người Anh muốn đồng hoá nền văn hoá- một quốc gia thù địch.
終戦後、調理が簡単であること、栄養価が高いことが注目され、学校給食に導入されます。さらに1950年代の高度経済成長期には、「板状固形カレールウ」が発売されました。これにより爆発的な人気を得たカレーは「国民食」まで発展します。
Sau chiến tranh, món cà ri được đưa vào thực đơn trưa cho các trường học do việc chế biến nhanh chóng, lại giàu chất dinh dưỡng. Hơn nữa, vào năm 1950 thời kì phát triển kinh tế nhanh chóng, thì “viên nén cà ri” đã được phát hành. Kết quả là, cà ri đã trở nên phổ biến mạnh mẽ, đã phát triển thành một "món ăn quốc dân".
その後も進化を続け、1968年にパウチを用いた「レトルトカレー」が発売。さらに、普及の過程で「カレーうどん」「カレーパン」「カレーせんべい」などの様々な料理が開発されていきます。
Sau đó, nó tiếp tục phát triển và đến năm 1968 “cà ri đóng túi” được phát hành. Hơn nữa, trong quá trình phát triển, các món ăn khác nhau như "udon cà ri", "bánh mì cà ri" và "bánh gạo cà ri" cũng đã được phát hành.
カレー文化の形成から読み解く日本人の特徴
Từ việc hình thành nên văn hoá cà ri, phân tích đặc trưng của người Nhật.
カレーは、現代に至るまで日本独自の様々なアレンジを加えられてきました。その時代に適した形にアップデートを重ね、諸国のカレーと一線を画す変化を遂げています。
Món cà ri thì cho đến hiện tại, đã được biến tấu theo nhiều cách độc đáo của người Nhật.Nó đã được cập nhật để phù hợp với thời đại và đã trải qua những thay đổi để phân biệt với món cà ri của các quốc gia khác.
このカレー文化の形成に、日本人の特徴を垣間見ることができるのではないでしょうか。
日本人は、その飽くなき探究心で、自分たちの好みに最適化していく能力が高い民族です。独自の進化を遂げたカレーは、そんな日本人の国民性を体現する料理であると言えるでしょう。
Bạn có thể thấy những nét đặc trưng của người Nhật trong việc hình thành nên văn hóa cà ri này.
Người Nhật là một tộc người có óc ham học hỏi và khả năng tối ưu hóa thị hiếu của họ rất cao.Có thể nói, cà ri, đã trải qua một quá trình phát triển độc đáo, chính vì điều đó nó thể hiện đặc trưng dân tộc Nhật Bản.